Nhân khẩu Mười_ba_thuộc_địa

Dân số

Dân số thuộc địa Mỹ[70]
NămDân số
16251,980
164150,000
1688200,000
1702270,000
1715435,000
17491,000,000
17541,500,000
17652,200,000
17752,400,000

Dân số thuộc địa đã tăng lên một phần tư triệu trong thế kỷ 17, và gần 2,5 triệu trước cuộc cách mạng Mỹ. Perkins (1988) lưu ý tầm quan trọng của sức khỏe tốt đối với sự phát triển của các thuộc địa: "Ít người chết lúc còn trẻ hơn có nghĩa là tỷ lệ dân số cao hơn ở độ tuổi sinh sản, và thực tế đó chỉ giúp giải thích tại sao dân số các thuộc địa tăng nhanh như vậy".[71] Có nhiều lý do khác cho sự gia tăng dân số bên cạnh sức khỏe tốt, chẳng hạn như Cuộc Đại di cư.

Đến năm 1776, khoảng 85% tổ tiên của dân số da trắng có nguồn gốc từ Quần đảo Anh (Anh, Ailen, Scotland, xứ Wales), 9% gốc Đức, 4% Hà Lan và 2% Huguenot Pháp và các dân tộc thiểu số khác. Hơn 90% là nông dân, với một số thành phố nhỏ cũng là cảng biển nối liền nền kinh tế thuộc địa với Đế quốc Anh rộng lớn hơn. Những quần thể này tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh chóng vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, chủ yếu là do tỷ lệ sinh cao và tỷ lệ tử vong tương đối thấp. Nhập cư chỉ chiếm một phần nhỏ từ năm 1774 đến 1830.[72] Nghiên cứu của Cục điều tra dân số liên bang năm 2004 đưa ra các ước tính dân số sau đây cho các thuộc địa: 1610 350; 1620 2.302; 1630 4.646; 1640 26.634; 1650 50.368; 1660 75,058; 1670 111.935; 1680 151.507; 1690 210.372; 1700 250.888; 1710 331.711; 1720 466.185; 1730 629,445; 1740 905,563; 1750 170.760; 1760 1.593.625; 1770 2.148.076; 1780 2.780.369. CT970 tr. 2-13: Thống kê thuộc địa và tiền liên bang, Cục điều tra dân số Hoa Kỳ 2004, tr. 1168.

Nô lệ

Chế độ nô lệ là hợp pháp và được thực hành trong tất cả mười ba thuộc địa.[4] Ở hầu hết các nơi, nó liên quan đến người giúp việc nhà hoặc công nhân nông trại. Nó có tầm quan trọng kinh tế trong các đồn điền thuốc lá định hướng xuất khẩu của Virginia và Maryland và trên các đồn điền trồng lúa và chàm ở Nam Carolina.[73]Khoảng 287.000 nô lệ đã được nhập khẩu vào Mười ba thuộc địa trong khoảng thời gian 160 năm, tương đương 2% trong số 12 triệu ước tính được đưa từ châu Phi đến châu Mỹ thông qua buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương. Đại đa số đã đến các thuộc địa đường ở vùng Caribbean và Brazil, nơi tuổi thọ rất ngắn và con số phải liên tục được bổ sung. Vào giữa thế kỷ 18, tuổi thọ cao hơn nhiều ở các thuộc địa của Mỹ.[74]

Nô lệ nhập khẩu vào thuộc địa châu Mỹ[75]
1620–17001701–17601761–17701771–1780Tổng
21,000189,00063,00015,000287,000

Các con số tăng nhanh qua tỷ lệ sinh rất cao và tỷ lệ tử vong thấp, đạt gần bốn triệu vào cuộc điều tra dân số năm 1860. Từ năm 1770 đến năm 1860, tốc độ tăng trưởng tự nhiên của nô lệ Bắc Mỹ lớn hơn nhiều so với dân số của bất kỳ quốc gia nào ở châu Âu, và nhanh gấp gần hai lần so với ở Anh.

Tôn giáo

Tin Lành là liên kết tôn giáo chiếm ưu thế trong Mười ba thuộc địa, mặc dù cũng có người Công giáo, Do Thái, và Thần giáo tự nhiên, và một phần lớn không có mối liên hệ tôn giáo. Giáo hội Anh được chính thức thành lập ở hầu hết miền Nam. Phong trào Thanh giáo trở thành Giáo hội Giáo đoàn, và đó là sự liên kết tôn giáo được thiết lập ở Massachusetts và Connecticut vào thế kỷ 18.[76] Trong thực tế, điều này có nghĩa là các khoản thu thuế được phân bổ cho chi phí nhà thờ. Anh giáo ở miền Nam chịu sự kiểm soát của các nhà may địa phương và có các chức năng công cộng như sửa chữa đường sá và cứu trợ người nghèo.[77]

Các thuộc địa rất đa dạng về tôn giáo, với các giáo phái Tin lành khác nhau do người Anh, Đức, Hà Lan và những người nhập cư khác mang đến. Truyền thống Cải cách là nền tảng cho các Giáo hội Trưởng lão, Giáo hội Giáo đoànGiáo hội cải cách lục địa. Người Huguenot gốc Pháp thành lập các hội thánh Cải cách của riêng họ. Giáo hội Cải cách Hà Lan rất mạnh trong số những người Mỹ gốc Hà Lan ở New York và New Jersey, trong khi Giáo hội Luther phổ biến trong những người nhập cư Đức. Người Đức cũng mang đến các hình thức Anabaptist đa dạng, đặc biệt là dòng Menno. Nhà truyền giáo Baptist cải cách Roger Williams đã thành lập đồn điền Providence trở thành Thuộc địa Rhode Island và đồn điền Providence. Người Do Thái được tập hợp ở một vài thành phố cảng. Gia đình Baltimore thành lập Maryland và đưa đồng bào Công giáo từ Anh.[78] Người Công giáo được ước tính chiếm 1,6% dân số hoặc 40.000 người vào năm 1775. Trong số 200-250.000 người Ailen đến thuộc địa từ năm 1701 đến 1775, ít hơn 20.000 người Công giáo, nhiều người che giấu đức tin hoặc bị mất vì định kiến ​​và phân biệt đối xử. Trong khoảng 1770-1775 3.900 người Công giáo Ailen đã đến từ gần 45.000 người nhập cư da trắng (7.000 người Anh, 15.000 người Scotland, 13.200 người Scotland-Ailen, 5.200 người Đức), Jon Butler, Trở thành người Mỹ, Cuộc cách mạng trước 1776, 2000, tr. 35, ISBN 0-674-00091-9. Hầu hết người Công giáo là người Anh, người Đức, người Ailen và người da đen sống ở Maryland, nơi một nửa dân số Công giáo sống ở New York và Pennsylvania. Tín đồ Giáo hội Trưởng lão là những người nhập cư chủ yếu từ Scotland và Ulster, những người ủng hộ đất nước phía sau và các quận biên giới.[79]

Hội Tôn Giáo Các Tín Hữu cũng được thành lập ở Pennsylvania, nơi họ kiểm soát sự tự trị và lập pháp trong nhiều năm.[80] Tín đồ Hội Tôn Giáo Các Tín Hữu cũng có rất nhiều ở Rhode Island. Báp-tít và người theo Phong trào Giám lý đã phát triển nhanh chóng trong Đại Tỉnh thức lần thứ nhất vào thập niên 1740.[81] Nhiều giáo phái đã tài trợ cho các Sứ mệnh truyền giáo cho người da đỏ địa phương.[82]

Giáo dục

Giáo dục đại học đã có sẵn cho những thanh niên trẻ ở miền Bắc, và hầu hết các sinh viên đều là những mục sư Tin lành. Các trường cao đẳng lâu đời nhất là Đại học New (Harvard), Đại học New Jersey (Princeton), Trường đại học (Yale)Đại học Rhode Island (Brown). Những trường khác là Đại học King (Columbia), Đại học Philadelphia (Đại học Pennsylvania), Đại học Queen (Rutgers)Đại học Dartmouth ở New Hampshire. Phía nam Philadelphia, chỉ có Đại học William và Mary đào tạo giới thượng lưu thế tục ở Virginia, đặc biệt là các luật sư đầy tham vọng.

Ở miền Nam Hoa Kỳ, niềm tin, phản ánh niềm tin chung ở châu Âu, rằng gia đình có trách nhiệm giáo dục con cái của họ. Các gia đình giàu có hoặc sử dụng gia sư và quản gia từ Anh hoặc gửi con đến trường ở Anh. Vào những năm 1700, sinh viên đại học có trụ sở tại các thuộc địa bắt đầu làm gia sư.[83]

Hầu hết các thị trấn ở Tân Anh tài trợ cho các trường công lập cho nam sinh, nhưng việc học ở trường công lập rất hiếm ở nơi khác. Các cô gái được giáo dục tại nhà hoặc bởi các trường tư thục địa phương nhỏ, và họ không được tiếp cận với đại học. Các bác sĩ và luật sư có tham vọng thường học làm người học việc cho một người đang hành nghề có uy tín, mặc dù một số thanh niên đã đến các trường y ở Scotland.[84]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mười_ba_thuộc_địa http://scholarworks.iu.edu/journals/index.php/imh/... http://avalon.law.yale.edu/subject_menus/statech.a... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/11632252 //dx.doi.org/10.1017%2FS0022050700075458 //dx.doi.org/10.1093%2Facprof:oso%2F9780199206124.... http://babel.hathitrust.org/cgi/mb?a=listis;c=8552... http://babel.hathitrust.org/cgi/pt?id=mdp.49015000... //www.jstor.org/stable/2117183 http://openlibrary.org/books/OL19213819M //www.worldcat.org/oclc/1047483138